Lên Ngũ Hành Sơn nhớ Phạm Hầu

1286983060Có một người con đất Quảng tài hoa bạc mệnh nhưng đã kịp “đặt chân” vào phong trào Thơ mới với những tác phẩm để đời… Mỗi lần có dịp lên Ngũ Hành Sơn, đứng vào cửa đá bên Vọng hải đài trên hòn Hỏa Sơn, nghe gió từ mênh mông biển khơi thông thốc thổi vào, lại tưởng ra trong vô hạn vô hồi gió ấy có tiếng thơ Phạm Hầu như một thứ diệu âm ngày ngày khắc vào đá núi: “Đưa tay ta vẫy ngoài vô tận/ Chẳng biết xa lòng có những ai?”. Dường như ngọn thi sơn “Vọng hải đài” mà thi sĩ Phạm Hầu đã xây thành từ hơn nửa thế kỷ trước, vẫn là cái đài thơ đẹp lung linh và chót vót, thật khó lòng cho ai có thể điền tên thay vào đấy được.

Vọng hải đài – Ngũ Hành Sơn (Đà Nẵng). Ảnh tư liệu

Chẳng biết trong lòng ghi những ai/ Thềm son từng dội gót vân hài/ Hỡi ôi! Người chỉ là du khách. Giây phút dừng chân vọng hải đài”. Một phút du khách dừng chân hay là một khoảnh khắc sinh thành huyền thoại, để từ đó ký gửi vào vô tận một “Vọng hải đài” thơ bên cạnh một Vọng hải đài đá núi chon von sừng sững trước bao la biển cả, như muốn thi thố cùng tháng năm nhật nguyệt một sức sống trường cửu.

Phạm Hầu là thi sĩ xuất hiện đồng thời với lớp nhà thơ Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân Diệu vào thời Thơ mới. Ông sinh năm 1920 tại làng Trừng Giang xã Điện Trung huyện Điện Bàn, xuất thân trong một gia đình khoa bảng (cha là Phạm Liệu, đỗ tiến sĩ khoa Mậu Tuất – 1898, một trong những tri thức thời bấy giờ được tôn xưng là Ngũ phụng tề phi trên vùng đất Quảng). Theo “Hồi ký song đôi” của Huy Cận và Xuân Diệu: “Phạm Hầu cùng học ở trường Quốc học (Huế), sau tôi (Huy Cận) hai lớp. Lúc học đệ tứ niên thành chung, Phạm Hầu đã làm thơ và có đăng một số bài ở tạp chí Tao Đàn hồi đó… Anh học trường Cao đẳng Mỹ thuật (khóa 13 – trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương 1939 – 1944)… Tôi thường đến thăm và đàm đạo thơ ca với anh…”. Phạm Hầu còn là một họa sĩ có tài, từng có tranh đoạt giải nhất ở triển lãm tranh Đông Kinh (Nhật) vào năm 1940. Tiếc thay cánh cửa định mệnh của một cuộc đời tài hoa đã khép lại quá sớm, Phạm Hầu mất vào năm 1944 khi vừa 24 tuổi, để lại một sự nghiệp thơ dang dở.Nhà thơ Chế Lan Viên lúc sinh thời cũng từng bộc bạch: “Thơ anh ấy rất hay và xúc động: “Nếu tôi đau. Trời đẹp! Nếu tôi đau. Mà muôn đời mưa nắng hiểu lòng nhau…”. Ôi! Thơ của những con người như thế, cầm lên tay một câu, một chữ nặng cả một cuộc đời” (Vẫy ngoài vô tận, NXB Thanh Niên, trang 102). Không chỉ Chế Lan Viên mà các nhà thơ lớn khác, như Lưu Trọng Lư trong hồi ký “ Nửa đêm sực tỉnh”, Huy Cận trong “Hồi ký song đôi”, phần viết về Phạm Hầu đều ghi lại một quãng đời đẹp đẽ trong tình bạn và sự trân trọng nuối tiếc về một thi tài mệnh yểu. Trong “Thi nhân Việt Nam”, con mắt tinh đời của Hoài Thanh – Hoài Chân cũng đã chuốt sáng từng dòng khi viết về Phạm Hầu: “Ở giữa đời Phạm Hầu là một cái bóng, chân đi không để dấu trên đường đi. Người còn mãi sống với mình và con người ta tưởng không có gì là một con người giàu vô hạn. Lòng người là một vọng hải đài” (Thi nhân Việt Nam, xuất bản 1942). Dường như trong tất cả mọi trang viết về Phạm Hầu, nơi đâu ta cũng thấy loáng thoáng những lời, những ý như tiên cảm, dự báo về sự mong manh của một cuộc đời. Cả thơ Phạm Hầu cũng thế, có vẻ như một thứ ngôn linh ông tiên tri cho chính số phận của mình: “Tiếng rên xiết giờ tàn khi chấm hết/ Cảnh thường xuyên đêm sáng đổi thay màu…/ Hay đòi hỏi thịt êm và tủy nóng/ Tôi xin nằm yên ổn cả hai tay” (Mãi dâng trọn hồn vui) Nhưng một cuộc đời kiểu như thi sĩ, họa sĩ Phạm Hầu “Tôi theo tư tưởng vô cùng tận/ Chỉ gặp vô cùng nỗi quạnh hiu” (Lý tưởng) thì muôn đời sự cô liêu thăm thẳm mãi là người bạn đồng hành. Tâm hồn cao rộng của một nghệ sĩ tài hoa như ông thường luôn hướng tới vượt thoát mọi giới hạn thường nghiệm, có khi nuôi dưỡng một khát vọng lại cơ hồ đến tuyệt vọng: “Tôi đợi người đây, Tuyệt đích ơi!/ Dẫu xa, xa cách mấy phương trời/ Biết rằng vô ích nhưng tôi vẫn/ Phung phí đời tôi mấy độ tươi” (Lý tưởng). Đọc thơ của Phạm Hầu, ta thường bắt gặp những cõi, những miền siêu hình, vô tận, vô cùng, tuyệt đích… Ở đấy mới là xứ sở của nghệ thuật và tình yêu của thi sĩ, vượt lên con đường mòn nhẵn thời gian, mà khám phá tìm kiếm cái mới cái lạ – một mê say thường hằng trong một nội tại luôn quẫy cựa, thao thức mong đạt tới cái đẹp vẹn toàn. Một giấc mơ xem ra không hồi kết thúc, tất cả xây thành một thế giới vừa ưu mỹ lại vừa mơ hồ luôn vây bủa một tâm hồn cô đơn. Một con người mà theo sự mô tả của Huy Cận: “Anh người mảnh dẻ, giọng nói rất nhẹ, gần như nói thầm, nhưng thỉnh thoảng cũng cười to lên, khi gặp một ý thích thú tâm đắc. Mắt Phạm Hầu như nhìn xa đi đâu, không phải là khóe mắt mơ mộng… mà là nét nhìn xa vắng” (Hồi ký song đôi). Trong bức tranh siêu thực “Cô đơn”, Phạm Hầu vẽ một hòn đá đầy rêu xanh đã mang về giải nhất khi tham dự triển lãm quốc tế tại Đông Kinh, về sau cũng đã tuyệt bản không tìm thấy, chỉ còn nghe những câu chuyện do những họa sĩ tiền bối đồng thời với ông kể lại. May mà còn lại thơ Phạm Hầu, còn lại cái đỉnh “Vọng hải đài” cùng với nắng sớm mưa chiều trên Ngũ Hành Sơn.Hãy đọc khát vọng nghệ thuật của ông qua cách viết đẹp như chính hồn thơ ông lênh láng vậy: “Có hai nơi mà tôi ao ước sống. Một nơi bên Kim Tự Tháp ở Ai Cập, một nơi ở một khách sạn tại NewYork. Ở một nơi linh hồn tôi như gặp một kẻ hoàn toàn tin tưởng, mến yêu, một nơi tôi gặp một địch thủ ngạo nghễ và sung túc. Nhưng cái giá trị của một tình nhân là biết ngồi bên người yêu và cũng biết đứng trước kẻ địch. Linh hồn ta ơi! Trong phòng trắng ta hãy đi một chuyến qua bên thành phố vật chất kia để tự hiểu cái sự thật của người yếu hay kẻ mạnh, người về ta sẽ rõ…” (Vẫy ngoài vô tận, NXB Thanh Niên, trang 254). Có thể những tư liệu về Phạm Hầu chưa sưu tầm hết được, cũng có thể có những sưu tầm chưa thật chính xác về ông, nhưng có lẽ vượt lên tất cả, Phạm Hầu đã là một huyền thoại, là ánh sao băng bay xẹt qua bầu trời, để người đời sau ngưỡng vọng chưa thấy hết những hồi quang về ông. “Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư”, vận câu thơ của Thiền sư Không Lộ vào đây để hiểu ra cái lẽ vĩnh hằng “Một tiếng tâm linh ngàn tiếng vọng”. Thử một lần đứng trên Vọng hải đài đá núi, bắt chước người xưa đưa tay về phương biển mà vẫy, mà ngâm nga: “Đưa tay ta vẫy ngoài vô tận/ Chẳng biết xa lòng có những ai?”. Vào chính những lúc như thế ta sẽ hiểu thế nào là ngàn tiếng vọng, sẽ hiểu thế nào là Phạm Hầu thi sĩ “Một sắc không bờ trên biển xa!”. Ôi chao, người đi không để dấu trên đường là thế đó, “Một phút dừng chân Vọng Hải đài” mà vang hưở

 

This entry was posted in Uncategorized. Bookmark the permalink.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *