Bài viết Nhân kỷ niệm Ngày viên tịch của Hòa thượng Thích Đức Nhuận

Người đăng: huan-yngoc, Ngày đăng: 01-01-2015, 10294 Views

ĐỆ NHẤT PHÁP CHỦ THÍCH ĐỨC NHUẬN,
VỊ DANH TĂNG HỌ PHẠM

Đại lão Hoà thượng Thích Đức Nhuận (1897-1993), tên huý là Phạm Đức Hạp, Pháp hiệu Thanh Thiệu, Pháp danh Đức Huy, sinh năm Đinh Dậu (1897), tại thôn Quần Phương, xã Hải Phương, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Thân phụ là cụ Phạm Công Toán hiệu Thành Phủ; thân mẫu là cụ Lê Thị Vụ. Ngài là con thứ 6 trong gia đình có 8 anh chị em.
Sinh trưởng trong một gia đình nề nếp Nho phong, Ngài bắt đầu đi học từ năm 7 tuổi. Thân phụ Ngài vốn là một danh y Đông dược, được Sư Tổ Chùa Đồng Đắc (tỉnh Ninh Bình) mời sang để chế thuốc phong cứu giúp dân làng. Do được theo hầu thân phụ, dần dần Ngài mến mộ cảnh yên tịnh chốn Thiền môn và năm 15 tuổi (Nhâm tý – 1912), Ngài nhận chân: cuộc đời là vô thường, thân người là giả tạm, nên Ngài xin phép song thân xuất gia đầu Phật.
Ban đầu Ngài cầu pháp với Sư tổ Thích Thanh Nghĩa (thuộc dòng Tào Động, chùa Quảng Bá – Hà Nội) khi đó đang trụ trì chùa Đồng Đắc, xã Đồng Hướng, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình.
Duc-Nhuan
Sau khi quy y, Ngài được gửi đến chùa Thanh Nộn, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam học Đạo với Sư tổ Thích Thanh Ninh. Ngài luôn được Sư tổ thương yêu và kỳ vọng do đức hạnh khiêm cung, siêng năng, hiếu học của Ngài.
Năm 20 tuổi (1917), Ngài được thụ giới Cụ Túc tại chùa Già Lê ở Phúc Nhạc, huyên Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. Giới đàn này gồm các bậc cao Tăng như: Sư tổ Thích Thanh Khiết làm Hoà thượng Đàn ®ầu, và các vị Sư tổ Thích Trung Định, Sư tổ Thích Thanh Phúc làm Giáo thọ, Sư tổ Thích Khang Thượng, Sư tổ Thích Thanh Nghĩa làm Tôn chứng. Từ đây, Ngài thực sự dự vào hàng Tăng bảo với trọng trách: “Thượng cầu Phật đạo, hạ hoá quần sinh”.
Sau khi đắc pháp, Ngài tiếp tục con đường tu học ở nhiêu chùa lớn như: chùa Đào Xuyên (huyện Gia Lâm, Hà Nội) do Tổ Giám Thông Mệnh giảng dạy; chùa Bằng (huyện Thường Tín, Hà Tây) và chùa Sở (Đống Đa, Hà Nội) do Sư tổ Phan Trung Thứ thuyết pháp. Trải qua bao năm tháng chuyên tâm tu học tại các chùa này, Ngài đã trở thành một bậc đạo hạnh trong sáng; không những uyên thâm Phật học mà còn quán triệt cả Khổng giáo, Lão giáo, trở thành tiêu đích cho hàng Tăng, Ni, Phật tử ngưỡng mộ.
Trong thời gian tu học ở chùa Bằng Sở, do nhận thức của ngài về chánh đạo đã thâm sâu, ngài nhận thấy thực trạng mê tín dị đoan có tính truyền thống là một trở ngại rất lớn cho người phật tử trên con đường tu học, nên ngài đã tích cực khởi xướng bài trừ. Ban đầu ngài đã phải đối phó với tư tưởng dị đồng của chính những bạn đồng môn, nhất là của một số phật tử có ít nhiều dính dáng với các đền, các phủ. Việc làm này đã gợi cho mọi người khái niệm phân biệt giữa chánh tín và mê tín và được tổ bằng sở hết lời khen ngợi.
Năm 42 tuổi (1939), nhằm mục đích vị tha, dấn thân trong đại nguyện cứu khổ, độ sinh, ngài đó phát tâm thọ giới Bồ Tát, do sư tổ Thích Doãn Hài, viện chủ chùa Tế Xuyên (tỉnh hà nam) chứng đàn.
Năm 1940, Ngài trở về thừa kế, trụ trì chùa Đồng Đắc. Phật sự đầu tiên được đặt ra trong tâm trí Ngài là: đào tạo tăng tài, tổ chức Giáo hội. Ngài liền thành lập 2 trường Phật học: một ở chùa Đồng Đắc (xã Đồng Hướng, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình) và một ở chùa Kỳ Lân (thôn Đại Hữu, xã Văn Bồng, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình).
Ngài luôn được chư Tăng, Ni, phật tử cung thỉnh làm Chủ hạ các trường Hạ như: Trường Hạ chùa Già Lê (Phúc Nhạc, Yên Khánh), trường Hạ chùa Đại Hữu, trường Hạ chùa Sơn Thuỷ (Non Nước), trường hạ chùa Lê Xá (huyện Gia Viễn), trường hạ chùa Bà Đá (Hà Nội) v.v…
Sau Cách mạng tháng Tám và những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, Tổ đình Đồng Đắc do Ngài trụ trì là cơ sở nuôi giấu cách mạng. Ngài vận động Tăng tín đồ Phật tử khắp nơi, nhất là vùng Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình ủng hộ và tham gia kháng chiến.
Với đức độ tu hành, giới luật tinh nghiêm, năm 1950, Hội Phật giáo tỉnh Ninh Bình cung thỉnh Ngài giữ chức Giám luật Phật giáo tỉnh Ninh Bình để làm tiêu đích cho Tăng, Ni, Phật tử trên con đường tu học.
Năm 1952, vùng quê hương bản sở của Ngài bị quân đội viễn chinh Pháp và bọn tay sai khủng bố ác liệt, một số tín đồ Phật giáo bị ép bỏ đạo, chùa chiền bị phá phách, tinh thần Phật tử bị khủng hoảng trầm trọng. Đứng trước thảm hoạ mất nước và nguy cơ mất đạo, với cương vị là người đứng đầu hàng cao tăng trong vùng, Ngài đã kiên quyết bảo vệ tôn giáo và tín ngưỡng của quần chúng. Kẻ thù đã dùng mọi thủ đoạn mua chuộc, hăm doạ tù đày hòng uy hiếp tinh thần Ngài, nhưng Ngài vẫn an nhiên, hiên ngang trước mọi đe đoạ của giặc.
Năm 1955, sau khi hoà bình lập lại, Ngài được mời lên Thủ đô Hà Nội để cùng Chư tôn đức tổ chức Giáo hội, hoằng dương Phật Pháp. Ngài được giao nhận chức Phó Hội trưởng Hội Phật giáo Việt Nam. Trong thời gian này, Ngài được thỉnh về trụ trì chùa Tàu (Phổ Giác Tự), Đống Đa, Hà Nội. Từ ngôi chùa này, Ngài thường xuyên sang trụ sở Trung ương Hội, Chùa Quán Sứ để làm việc. Về sau, do nhu cầu của Giáo Hội, Ngài đã ở tại chùa Quán Sứ, và sau đó một thời gian được bổ nhiệm ngôi vị trụ trì chùa Quán Sứ.
Năm 1956, ngài được bầu làm Phó Ban Đại diện Phật giáo Thủ đô.
Năm 1957, Ngài là một trong những thành viên trong Đoàn Đại biểu Phật giáo Việt Nam đến yết kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh và Phó Chủ tịch Tôn Đức Thắng tại phủ Chủ tịch.
Tháng 3 năm 1958, Hội Phật Giáo Thống Nhất Việt Nam (ở miền Bắc) thành lập, Ngài được bầu làm Phó Hội trưởng. Ngài đảm nhiệm ngôi vị này liên tục qua bốn kỳ đại hội, cho tới năm 1979.
Năm 1969, Ngài về trụ trì Chùa Quảng Bá (Hoằng Ân tự), xã Quảng An, huyện Từ Liêm, nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội. Cũng trong năm này, Hội Phật giáo Thống Nhất Việt Nam mở trường Tu học Phật pháp Trung Ương tại đây và thỉnh Ngài làm Hiệu trưởng. Đây là ngôi trường có tổ chức đầu tiên sau ngày miền Bắc giải phóng. Ngài trụ trì chùa Hoàng Ân ở Quảng Bá gần 20 năm trước khi về chùa Hoè Nhai, Ba Đình, Hà Nội.
Năm 1979, khi Hoà Thượng Thích Trí Độ, Hội trưởng Hội Phật giáo Thống Nhất Việt Nam thị tịch, Ngài là Quyền Hội trưởng cho đến năm 1981, khi Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam được thành lập.
Để có nơi an táng sắc thân tứ đại của Tăng, Ni toàn thành phố Hà Nội, năm 1980 Ngài đứng ra xin phép Nhà nước thành lập nghĩa trang tại chùa Huỳnh Cung, xã Tam Hiệp, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Cũng trong năm này, Ngài nhận lãnh Tổ đình Hồng Phúc (Hoè Nhai), chốn Tổ của Thiền Phái Tào Động và năm 1986 Ngài chính thức về đây trụ trì cho đến khi viên tịch.
Năm 1980, trong bối cảnh nước nhà hoàn toàn độc lập thống nhất; Tăng, Ni, Phật tử cả nước mong muốn thực hiện ý nguyện bao đời của các bậc tiền nhân là thống nhất, hoà hợp Phật giáo Việt Nam. Ban Vận động Thống nhất Phật Giáo Việt Nam ra đời trong thời điểm này và đã cung thỉnh Ngài làm Chứng minh Ban Vận động. Cũng trong năm này, Ngài vào lưu trú tại Tổ đình Vĩnh Nghiêm (thành phố Hồ Chí Minh) một năm để cùng với Ban Vận động Thống nhất Phật Giáo Việt Nam đi thăm hỏi, trao đổi, bàn bạc với chư vị Tôn túc lãnh đạo các giáo phái, hệ phái, hội đoàn Phật giáo tại các tỉnh phía Nam để thực hiện ý nguyện thống nhất Phật giáo.
Tháng 11/1981, Đại hội đại biểu thống nhất Phật giáo Việt Nam diễn ra tại chùa Quán Sứ, thủ đô Hà Nội để thành lập Giáo hội Phật Giáo Việt Nam. Trong Đại hội, toàn thể đại biểu nhất tâm cung thỉnh Ngài đảm nhận ngôi vị Pháp chủ, nhưng Ngài 3 lần.từ chối. Cuối cùng, với sự thành tâm tha thiết của Đại hội, Ngài nhận lãnh ngôi vị Pháp chủ, nhưng yêu cầu Đại hội chấp thuận đề nghị của Ngài và đề đạt đề nghị ấy lên Chính phủ. Toàn thể Đại hội đều đứng lên trang nghiêm chấp thuận đề nghị của Ngài. Đề nghị ấy nhấn mạnh 3 vấn đề:
1. Mở trường Đại hoc Phật học ở 3 thành phố lớn
2. Có người thừa kế ở các chùa để lo Phật sự
3. Tôn trọng tín ngưỡng của tín đồ
Ngài dứt lời trong tiếng vỗ tay hân hoan bất tận của đại hội. Cố Đại lão Hoà thượng Thích Trí Thủ, Đệ nhất Chủ tịch Hội đồng Trị sự Trung ương GHPGVN lúc ấy, thay mặt Hội nghị, đứng lên thành tâm bái lĩnh đề nghị của Đức Pháp chủ và hứa sẽ đưa vào Nghị quyết của Đại hội để đệ trình lên Chính phủ. Đề nghị ấy được Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng lúc bấy giờ là Phạm Văn Đồng hứa sẽ thực hiện.
Từ Đại hội Đại biểu Thống nhất Phật giáo (1981) cho đến Đại hội Phật giáo lần thứ 3 (1992), Ngài luôn luôn được Tăng, Ni, Phật tử cả nước tín nhiệm, suy tôn đảm nhiệm ngôi vị Pháp chủ cho đến ngày Ngài thị tịch.
Ngoài Phật sự, Đức Pháp chủ còn tham gia các công tác từ thiện xã hội. Ngài được bầu làm Uỷ viên Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong nhiều khoá, Ngài được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập Hạng nhất. Dù làm bất cứ việc gì, Ngài cũng chỉ cho đó là một phương tiện để hoằng dương Phật pháp.
Là một danh tăng họ Phạm, Đại lão Hoà thượng Thích Đức Nhuận đã cống hiến trọn đời cho lý tưởng hoằng pháp lợi sinh, Ngài đã đóng góp nhiều công đức trong công cuộc chấn hưng, thống nhất và hoà hợp Phật giáo, góp phần đoàn kết và phụng sự dân tộc. Đức Pháp chủ là một vị Tôn Sư đã dày công dìu dắt hàng ngàn môn đồ đệ tử trong và ngoài nước, trong đó có nhiều vị Tăng, Ni, Cư sĩ đã trưởng thành, noi theo gương sáng của Ngài, bền vững đạo tâm, trang nghiêm giáo hội. Đức Đại lão Hoà thượng Thích Đức Nhuận thực sự là niềm vinh dự lớn của Phật giáo Việt Nam và cũng là niềm vinh dự lớn cho các bà con Phật tử họ Phạm.
Đức Pháp chủ, Đại lão Hoà thượng Thích Đức Nhuận thị tịch vào lúc 5 giờ 5 phút ngày 11 tháng 11 năm Quý Dậu (23 tháng 12 năm 1993) tại Bệnh viên Hữu Nghị Việt Xô, hưởng thọ 97 tuổi đời, 77 tuổi đạo. Tang lễ Hoà thương được cử hành vào ngày 31.12.1993. Kim quan của Ngài quàn ở chùa Quán Sứ. Các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chinh phủ và các cơ quan, đoàn thể, các tôn giáo bạn đều đến phúng viếng. Đông đaỏ tăng ni và Phật tử khắp cả nước đã đến dự lễ di quan Hoà thưọng. Đoàn rước tang lễ đi bộ dài hơn 4 km trên đoạn đường dài khoảng 10 km từ chùa Quán Sư đến bảo tháp của Ngài đặt ở chùa Hoàng Ân (Quảng Bá, Tây Hồ, Hà Nội).
Trên ngôi vị Pháp chủ Giáo hội Phật Giáo Việt Nam (từ 1981 đến 1993), Đại lão Hoà thượng Thích Đức Nhuận, vị danh tăng họ Phạm, là một vị cao tăng, đã trọn đời hiến dâng cho lý tưởng hoằng pháp lợi sinh; Ngài đã nhiệt tâm góp phần to lớn vào sự nghiệp làm sáng danh đạo Phật và dân tộc Việt Nam.
Phạm Đình Nhân

Các bài viết khác :