TƯỞNG NHỚ NHỮNG NGƯỜI ANH HÙNG HỌ PHẠM TRONG HẢI ĐỘI HOÀNG SA

Người đăng: Khôi Pham Văn, Ngày đăng: 26-03-2016, 16161 Views

LS1

LS2

LS3

LS9

TƯỞNG NHỚ NHỮNG NGƯỜI ANH HÙNG HỌ PHẠM TRONG HẢI ĐỘI HOÀNG SA

 

Nhân Lễ Khao lề tế lính Hoàng Sa ở đảo Lý Sơn ngày 19-20 tháng Hai âm lịch

TƯỞNG NHỚ NHỮNG NGƯỜI ANH HÙNG HỌ PHẠM TRONG HẢI ĐỘI HOÀNG SA :
200 NĂM SỰ KIỆN CAI ĐỘI HOÀNG SA PHẠM QUANG ẢNH ĐI HOÀNG SA THỰC THI CHỦ QUYỀN, 180 NĂM SỰ KIỆN PHẠM HỮU NHẬT LÀ NGƯỜI ĐẦU TIÊN ĐI CẮM CỘT MỐC CHỦ QUYỀN TRÊN QUẦN ĐẢO HOÀNG SA

Nói đến sự nghiệp bảo vệ biển đảo của Việt Nam, không thể không nói đến HẢI ĐỘI HOÀNG SA. Nói đến Hải Đội Hoàng Sa không thể không nói đến Lý Sơn vì đảo Lý Sơn – Cù Lao Ré xưa, nay là huyện đảo Lý Sơn tỉnh Quảng Ngãi được coi là “quê hương của Hải đội Hoàng Sa”. Nhiều người thuộc xã An Vình nói riêng, đảo Lý Sơn nói chung được lịch sử ghi nhận, dân chúng tôn thờ, nhưng chỉ có hai người được lấy tên để đặt cho hai hòn đảo ở quần đảo Hoàng Sa, đó là Cai đội Phạm Quang Ảnh và Chánh Đội trưởng Thủy quân Suất đội Hoàng Sa Phạm Hữu Nhật với hai hòn đảo tên là QUANG ẢNH và HỮU NHẬT. Năm nay là chẵn năm đánh dấu các sự kiện gắn đến sự nghiêp của hai ông: 200 năm sự kiện cai đội PHẠM QUANG ẢNH vâng lệnh Vua Gia Long thực hiện chuyến đi Hoàng Sa “xem xét đo đac thủy trình” cuối cùng của ông – 1816-2016; bốn lần năm Bính Thân: Bính Thân-1836, Bính Thân- 1896, Bính Thân-1956, Bính Thân-2016 để có tròn 3 vòng hoa giáp (60 năm) kể từ sự kiện lần đầu tiên Chánh Đội trưởng Thủy quân suất đội Hoàng Sa PHẠM HỮU NHẬT thực thì nhiệm vụ là người đầu tiên được Vua Minh Mạng cử đi cắm mốc chủ quyền của quốc gia VN trên quần đảo Hoàng Sa. Hai ông là người thuộc dòng họ Phạm Quang và Phạm Văn ở xã An Vĩnh, đảo Lý Sơn.
Nhiều tài liệu và bài viết đã nói đến việc các chúa Nguyễn thành lập Đội Hoàng Sa từ cách đây khoảng 400 năm, chưa xác định chính xác vào năm nào, có thể là vào đời Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1634) hoặc chậm nhất là đời Nguyễn Phúc Lan (1635-1648). Khi thành lập Đội Hoàng Sa, triều đình đã định rõ nơi huy động người vào Đội, chức năng nhiệm vụ của Đôi, trong quá trình hoạt động có chút thay đổi cho phù hợp. Đây là hình thức đội dân binh.
Khi mới thành lập, Đội Hoàng Sa chỉ có 70 người của làng An Vĩnh, An Hải ở đất liền và làng An Vĩnh, An Hải trên đảo Lý Sơn. Từ khi làng An Vĩnh trên đảo Lý Sơn được tách ra khỏi làng An Vĩnh trong vùng cửa biển Sa Kỳ vào năm Gia Long thứ 3 (1804) thì phiên chế chính thức của đội Hoàng Sa chủ yếu là người Lý Sơn, không chỉ của làng An Vĩnh mà còn của làng An Hải. Về sau, khi thành lập thêm đội Quế Hương, đội Bắc Hải cũng do đội Hoàng Sa kiêm quản, thì còn có thêm những binh phu của Bình Định, Bình Thuận, Thừa Thiên (Tứ Chính, Bình Cố, Cảnh Dương).
Các nguồn tư liệu từ lịch sử và điền dã, đã cho thấy khá rõ về chức năng nhiệm vụ của Đội Hoàng Sa và về sau là thủy quân Hoàng Sa. Là tổ chức dân binh nên Đội Hoàng Sa có nhiệm vụ vừa khai thác tài nguyên vừa canh giữ, tuần phòng vùng biển đảo. Vì sớm ý thức nguồn tài nguyên vô tận trên vùng Biển Đông nên triều Nguyễn thấy cần phải tổ chức canh phòng, bảo vệ và dần khẳng định cương vực lãnh thổ mở rộng trên vùng Biển Đông, bao gồm quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và những hòn đảo khác. Thời kỷ đầu, đội Hoàng Sa chỉ có chức năng đi tìm kiếm sản vật, hải vật, cả những thứ tìm thấy từ những xác tàu bị đắm, vàng bạc, đồ đồng, đồ thiếc, từng bước xác lập chủ quyền, bằng cách đo đạc, vẽ bản đồ các hòn đảo. Hằng năm, cứ vào tháng hai hoặc tháng ba đội Hoàng Sa nhận lệnh của triều đình, giong buồm trên những chiếc thuyền câu ra khơi và đến tháng tám âm lịch là trở về nộp cho triều đình các hải vật, sản vật cùng những thứ họ đánh bắt và thu lượm được trên quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và những vùng biển khác như Côn Lôn, Hà Tiên.
Sang đầu thời nhà Nguyễn, ý thức về chủ quyền lãnh thổ trên vùng Biển Đông được đặc biệt coi trọng. Lúc này nhiệm vụ thiêng liêng đi đo đạc thủy trình, dựng miếu trên các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, vẽ bản đồ, cắm mốc, dựng bia chủ quyền, không chỉ là nhiệm vụ của đội dân binh Hoàng Sa (kiêm Bắc Hải), mà còn là nhiệm vụ chính của các thủy quân, các viên giám thành được biệt phái từ kinh thành Huế, đặc biệt vào các năm 1803, 1815, 1816, 1834, 1835, 1836… gắn liền với tên tuổi các cai đội Võ Văn Phú, Phạm Quang Ảnh, Trương Phúc Sĩ, Phạm Văn Nguyên, Phạm Hữu Nhật, Phạm Văn Biên, Phạm Văn Sanh… mà hầu hết họ là người sinh ra trên đất đảo Lý Sơn.
Đặc biệt là Phạm Quang Ảnh năm 1815, 1816 nhận chỉ thị Vua Gia Long mang đội quân đi “xem xét, đo đạc thủy trình” tức là thực thi chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa – từ đó đến năm nay là tròn 200 năm. Ông không trở về, vua Gia Long đã đích thân ra đảo Lý Sơn làm lễ chiêu hồn cho ông cùng các đội viên của ông, họ hàng và dân làng đã lập mộ chiêu hồn cho ông cùng 24 tử sĩ. Phạm Văn Nguyên năm 1835 vâng mệnh Vua Minh Mạng “đem lính và phu thuyền Quảng Ngãi chở vật liệu ra Hoàng Sa dựng miếu thờ”.
Trong các bộ chính sử nhắc nhiều đến Chánh Đội trưởng Thủy quân suất đội Hoàng Sa Phạm Hữu Nhật và ghi rất rõ về công lao to lớn của ông trong việc xác lập chủ quyền Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa. Sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 165 chép rằng, từ năm Minh Mạng thứ 17 (Bính Thân-1836), Bộ Công tấu vua hàng năm cho cử người ra Hoàng Sa cắm cột mốc, dựng bia chủ quyền và đo đạc thủy trình, vẽ bản đồ. Quốc sử quán Triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Bốn, NXB Giáo dục, Hà nội, 2004, bản dịch Viện Sử học, trang 867 đã chép: Vua Minh Mạng y lời tâu, phê trong bản tấu của Bộ Công rằng: Sai suất đội Phạm Hữu Nhật đem binh thuyền đi. Chuẩn cho mỗi thuyền vãng thám Hoàng Sa phải đem theo 10 tấm bài gỗ dài 4,5 thước, rộng 5 tấc, dày một tấc làm cột mốc…, trên mặt bài khắc chữ: “Năm Minh Mạng thứ 17, năm Bính Thân, thủy quân chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật vâng mệnh ra Hoàng Sa, xem xét, đo đạc, đến đây lưu dấu để ghi nhớ…”. Vua Minh Mệnh cũng ra chỉ dụ: “Bản quốc hải cương Hoàng Sa xứ tối thị hiểm yếu” có nghĩa là “Đối với lãnh hải nước ta thì Hoàng Sa là cực kỳ quan trọng”. Phạm Hữu Nhật đã vinh dự là người đầu tiên được chọn phụng mệnh vua đi khẳng định chủ quyền biển, đảo Hoàng Sa, ngay sau lời Châu phê ấy. Không biết ông đã đi bao nhiêu chuyến, chỉ biết rằng, 18 năm sau, năm 1854 thì ông đi mà không trở về… Gia đình và họ tộc đã an táng ông bằng một nấm mộ chiêu hồn không có hài cốt[5] (tức mộ gió) tại thôn Đông làng An Vĩnh, bên cạnh ngôi mộ của cụ thủy tổ họ Phạm Văn, một trong sáu vị tiền hiền khai cư làng An Vĩnh trên đảo Lý Sơn.
Như vậy, theo các bộ chính sử, dù trước đó khá lâu đã có việc cử người ra quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa đo vẽ bản đồ, xác lập chủ quyền, nhưng phải đến năm Bính Thân-1836, thì Nhà nước Việt Nam mới chính thức cắm mốc, dựng bia chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa. Đó là lần đầu tiên, sử sách còn ghi chép việc dựng bia chủ quyền vẫn được tiến hành trong nhiều năm sau đó, như vào các năm 1837, 1838, 1839… là công việc thiêng liêng đó được xem là nhiệm vụ thường xuyên như lời châu phê của vua Minh Mạng khi Bộ Công tấu trình vào năm Bính Thân-1836. Sự kiện đó tính đến nay đã được 180 năm – 3 vòng hoa giáp.
Chúng ta tự hào về những Hùng binh Hoàng Sa đã xả thân vì sự nghiệp bảo vệ biển đảo của Tổ quốc trong đó có những người họ Phạm trên đảo Lý Sơn. Chúng ta chân thành cám ơn và kính cẩn nghiêng mình trước anh linh của các ông!
Vào dịp Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa 19-20 tháng 2 âm lịch hàng năm, cũng như các dòng họ ở Lý Sơn, tộc họ Phạm Văn, Phạm Quang cúng tế các ông như những vị tiền hiền bên cạnh việc tưởng nhớ các vị tham gia Đội Hoàng Sa đã hy sinh vì đất nươc
Mùa Xuân Bính Thân-2016
PHẠM THÚY LAN

 

Các bài viết khác :