Nhà thơ Phạm Huy Thông

Người đăng: hien-yngoc, Ngày đăng: 08-08-2013, 2340 Views

Nhà thơ, nhà giáo, nhà khoa học xã hội Việt Nam

pham huy thongPhạm Huy Thông là hậu duệ thế hệ thứ 24 của Phạm Ngũ Lão, và là thế hệ thứ 48 của thượng thủy tổ Phạm Tu. Quê gốc của Phạm Huy Thông ở làng Đào Xá, xã Bãi Sậy, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên.

Phạm Huy Thông sinh ngày 22 tháng 11 năm 1916 tại Hà Nội trong một gia đình làm nghề kinh doanh lớn, có tinh thần dân tộc .

Ngay từ nhỏ ông đã tỏ ra là một người có trí thông minh. Mới 16 tuổi ông đã nổi tiếng tiên phong của phong trào Thơ mới, điển hình là bài Tiếng địch sông Ô. Song thơ ca không phải là niềm đam mê duy nhất.

Năm 21 tuổi, ông đỗ cử nhân Luật tại Viện Đại học Đông Dương. Năm 1937, ông sang Pháp tiếp tục theo học chương trình đào tạo trên đại học các ngành Sử, Địa, Luật, Kinh tế, Chính trị.

Năm 26 tuổi, ông lần lượt thi đỗ Tiến sĩ Luật và Thạc sĩ sử địa tại Pháp. Năm 31 tuổi, ông được phong Giáo sư giữ chức Uỷ viên hội đồng giáo dục tối cao của Pháp

Năm 1946 tại Paris, ông được chọn giúp việc Chủ tịch Hồ Chí Minh và phái đoàn chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa ở hội nghị Fontainebleau. Chính những ngày được gần gũi Hồ Chí Minh ông đã chọn cho mình con đường mà Hồ Chí Minh đang đi.

Năm 1949, ông gia nhập Đảng cộng sản Pháp. Năm 1953, ông gia nhập Đảng Lao động Việt Nam.

Năm 1952, ông phụ trách tổ chức Việt kiều hải ngoại. Cũng trong năm đó ông bị trục xuất khỏi Pháp.

Đầu năm 1955, ông bị chính quyền Pháp đưa về quản thúc tại Hải Phòng.

Sau khi thoát khỏi nhà tù. Ông đảm nhiệm cương vị hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (1956-1966), Viện trưởng Viện Khảo cổ học (1967-1988), Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại biểu Quốc hội khóa II, III.

Năm 1987, ông được bầu Viện sĩ nước ngoài Viện hàn lâm Khoa học Cộng hoà Dân chủ Đức.

Ông mất vào ngày 21 tháng 6 năm 1988 tại Hà Nội.

Phạm Huy Thông đã thể hiện là một người đặc biệt có tài về tổ chức và kinh nghiệm lãnh đaọ. Thể hiện khi ông lãnh đạo Viện Nghiên cứu khảo cổ học nghiên cứu thành công đề tài “Thời đại các Vua Hùng dựng nước”, “Khảo cổ học 10 thế kỷ sau công nguyên”, “Khảo cổ học với văn minh thời Trần”… Góp phần làm cho Việt Nam trở thành một quốc gia có nền khảo cổ học mạnh tại Đông Nam Á. Ngoài ra ông còn là một nhà thơ, được nhắc đến trong cuốn “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh và Hoài Chân.

Năm 2000, ông được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về công trình nghiên cứu khảo cổ (Con Moong, trống đồng Đông Sơn và 4 bài dẫn luận thời đại Hùng Vương). Tên ông được đặt cho một con đường vòng quanh hồ Ngọc Khánh tại Hà Nội

Tác phẩm

Thơ:

  • Tiếng địch sông Ô
  • Con voi già
  • Anh Nga
  • Yêu đương

                                                                                                          Theo Bách khoa toàn thư.

 

    Ở Giáo sư, Viện sĩ Phạm Huy Thông, có nhiều con người được hội tụ trong một con người. Có thể nhắc đến ông với tư cách là một nhà thơ, nhà sử học, nhà bác học, nhà yêu nước và hoạt động xã hội. Ở lĩnh vực nào, Phạm Huy Thông cũng có những đóng góp quan trọng, với vai trò của một người luôn luôn đi những bước tìm tòi khai mở trong buổi đầu.    Rời đất nước, đi du học ở Pháp ngay từ những năm còn rất trẻ và nhanh chóng đạt được nhiều bằng cấp cao (tiến sĩ Luật, thạc sĩ Sử học) nhưng người trí thức trẻ Phạm Huy Thông vẫn nặng lòng gắn bó với quê hương xứ sở. Khi đất nước cần, ông sẵn sàng từ bỏ mọi giàu sang, danh vọng, chức tước… đầy hứa hẹn nơi xứ người để trở về Tổ quốc làm những công việc thầm lặng của một nhà khoa học.    Phạm Huy Thông sinh ngày 22/11/1916, quê gốc ở làng Đào Xá, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên. Quê hương ông là vùng đất nổi tiếng với nhiều truyền thuyết dân gian và những chiếu chèo sân đình rộn rã một thời. Chẳng biết từ bao giờ, những lời ca ngợi quê hương Đào Xá đã in vào tâm thức và trở thành niềm tự hào của mỗi người con đi xa:    Đào Xá tên gọi là làng    Làng em nhất xã chia làm ba thôn    Làng em đã nức tiếng đồn    Cả làng làm quạt bán buôn đủ nghề    Nhiều người đi học, đi thi    Người thì đỗ trạng, người thì vinh hoa…    Truyền thống quê hương, truyền thống gia đình đã sớm tạo ra cho Phạm Huy Thông một cái nền căn bản và vững chắc. Năm 17 tuổi ông đỗ tú tài, 20 tuổi đỗ cử nhân luật. Từ năm 1937 đến năm 1945 ông du học ở Pháp. Sau khi hoàn thành luận án tiến sĩ Luật khoa, ông làm tiếp luận án thạc sĩ Sử học và học thêm một số ngoại ngữ như Trung Quốc, Nhật Bản, Đức, v.v…    Bên cạnh sự nghiệp khoa học ngày càng mở rộng, Phạm Huy Thông còn tham gia hoạt động chính trị theo yêu cầu của đất nước thời kỳ đó. Từ năm 1940 đến 1945, ông tham gia tổ chức ái hữu của Việt kiều tại Pháp. Năm 1946, Hồ Chủ tịch cùng phái đoàn chính phủ ta sang Pháp dự hội nghị Phôngtennơblô Phạm Huy Thông được chọn làm thư ký riêng cho Bác và thư ký chung cho Hội nghị.    Việc tiếp xúc với Hồ Chủ tịch đã nâng sự hiểu biết và nhận thức của nhà khoa học Phạm Huy Thông lên một tầm cao mới. Sau khi Bác về nước, ông vẫn được tiếp tục giao trách nhiệm thực hiện một số nhiệm vụ khác, rồi sau đó ít lâu mới trở về Tổ quốc.    Ba mươi tuổi, Phạm Huy Thông đã được nhận học hàm Giáo sư. Hơn 40 năm hoạt động, Giáo sư Phạm Huy Thông đã giữ nhiều trọng trách như: Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam (nay là Viện Khoa học xã hội Việt Nam); Viện trưởng Viện Khảo cổ học; Quyền Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội Khoa học lịch sử, Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.    Chủ tịch Hội Du lịch Hà Nội, đại biểu Quốc hội khoá II, khoá III. Không chỉ tham gia hoạt động và có uy tín trong nhiều lĩnh vực thuộc khoa học xã hội ở Việt Nam, Giáo sư Phạm Huy Thông còn là người được bạn bè quốc tế quý trọng. Ông được bầu là Viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học Cộng hoà dân chủ Đức, là sáng lập viên của tổ chức quốc tế về Giáo dục và là uỷ viên Hội đồng hoà bình thế giới trong nhiều năm.    Khi tiếp xúc với Giáo sư, Viện sĩ Phạm Huy Thông, người ta dễ bị cuốn hút bởi trí tuệ uyên bác và vẻ lịch lãm của một trí thức. Có lẽ những yếu tố đó đã giúp ông gánh vác được nhiều nhiệm vụ khoa học, hoàn thành được nhiều trọng trách trong một cuộc đời không phải là dài.    Năng lực khoa học của ông còn được bộc lộ ở nhiều nơi, từ những công trình nghiên cứu có tầm cỡ quốc gia đến những bài viết in trên sách báo và tạp chí, hầu hết đều được giới khoa học trong và ngoài nước đánh giá cao. Để ghi nhận những đóng góp xứng đáng của Phạm Huy Thông, Nhà nước ta đã trao tặng ông Huân chương Độc lập hạng nhất và nhiều Huân chương cao quý khác.    Năm 2000, ông đã được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về một số công trình nghiên cứu thuộc chuyên ngành khoa học xã hội, trong đó có công trình nghiên cứu về thời kỳ Hùng Vương dựng nước – một đề tài mà ông dành khá nhiều tâm huyết.

 

Các bài viết khác :