NHẠC SĨ PHẠM DUY

Người đăng: huan-yngoc, Ngày đăng: 26-12-2011, 3968 Views

Nhạc sĩ Phạm Duy
pham-duy Nhạc sĩ Phạm Duy tên thật là Phạm Duy Cẩn Sinh ngày 5 tháng 10 năm 1921 (5 tháng 9 năm Tân Dậu) tại phố Hàng Cót, Hà Nội. Đến khi 13 tuổi (1934) vào được lớp nhất, ông học giỏi lên dần, thành một trong những học sinh ưu tú của lớp, nhất là môn đọc thơ tiếng Pháp.
Năm 1936, vào học ở trường Thăng Long, một trọng điểm trong thời kỳ kháng chiến. Thầy dạy ông có Võ Nguyên Giáp, ông học cùng lớp với nhà thơ Quang Dũng.
Năm 1942 ông có sáng tác đầu tay “Cô hái mơ”.Năm 1940, nghe lời bè bạn, ông thi vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông dương, học thầy Tô Ngọc Vân, chung lớp với Bùi Xuân Phái, Võ Lăng… nhưng ông không có năng khiếu nhiều và không ham vẽ cho lắm. Thời kỳ này ông ca hát nhiều hơn là vẽ
NHẠC SĨ PHẠM DUY với BLL HỌ PHẠM TP. HCM tại nhà riêng
Untitled-1
Năm 1944, ông thành ca sĩ hát tân nhạc trong gánh hát cải lương Đức Huy – Charlot Miều. Gánh hát này đưa ông đi rất nhiều miền trên đất nước, từ Bắc chí Nam, khiến ông mở mang tầm mắt, ngoài ra tự nhiên cũng trở thành một trong những nhân tố quan trọng trong việc phổ biến tân nhạc đến các vùng. Thời kỳ hát rong, Phạm Duy được gặp gỡ nhiều tên tuổi lớn như thi sĩ Lưu Trọng Lư, nhạc sĩ Lê Thương, Lê Xuân Ái, Văn Đông… và nhất là nhạc sĩ Văn Cao, người sau này trở thành bạn thân thiết.
Sau đó ông khởi sự con đường âm nhạc của mình với việc trở thành ca sĩ trong gánh hát Đức Huy, đi diễn lưu động từ Bắc qua Trung vào Nam trong những năm 1943-1945. Ông là người đầu tiên hát nhạc cải cách trên đài Radio Indochine ở Sài Gòn vào năm 1944, mỗi tuần trình bày 2 lần.
Năm 1945, xảy ra nạn đói, Phạm Duy rời nhà cũ đi lang thang nhiều nơi, sau đó ông theo kháng chiến. Trong thời Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, Phạm Duy trở thành cán bộ văn nghệ của Việt Minh và là một trong những nhạc sĩ thành công nhất lúc đó.
Năm 1949 ông lập gia đình với ca sĩ Thái Hằng.
Năm 1951, ông đem gia đình về Sài Gòn.
Năm 1953, ông qua Pháp học về âm nhạc, tại đây quen với giáo sư Trần Văn Khê. Về lại miền Nam, ông tiếp tục sáng tác và biểu diễn trong ban hợp ca Thăng Long. Nhạc Phạm Duy phổ biến rất rộng rãi ở miền Nam (mà nhạc sĩ Trịnh Công Sơn từng gọi là “bàng bạc khắp mọi nơi” thời bấy giờ). Thời gian này ông có những hoạt động trong ngành điện ảnh.
Từ sau 30 tháng 4 năm 1975, ông và gia đình cư ngụ tại Thành phố Midway, Quận Cam, California.
Năm 1990, ông bắt đầu viết hồi ký, khi hoàn tất chia làm 4 cuốn.
Năm 1999, vợ ông là bà Thái Hằng qua đời, sự kiện này khiến ông bị cao huyết áp phải đi nằm bệnh viện một thời gian dài. Sau năm này, lần đầu về thăm quê hương sau 25 năm lưu lạc, ông gặp gỡ nhiều bạn cũ ở Việt Nam.
9 giờ 45 ngày 17/5/2005, nhạc sĩ Phạm Duy đã về đến phi trường Tân Sơn Nhất (TP.HCM). Ông đã nhiều lần về Việt Nam, nhưng đây là lần về rất đặc biệt: về ở hẳn.
Ngay khi xuông sân bay ông đã phát biểu với báo chí về chuyến trở về của mình với phóng viên như sau :

“Tôi có quyết định về Việt Nam từ năm 1988. Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đã cho thế giới thấy một Việt Nam cởi mở như thế nào. Từ chuyện muốn về nước, nên tôi đã viết ca khúc Hẹn em năm 2000 và khi nhà tôi mất năm 1999, tôi không còn vướng bận chuyện gia đình nữa, càng thôi thúc tôi phải về hơn. Từ đó đến nay, tôi đã về 10 lần, những gì mắt thấy tai nghe đủ cho tôi quyết định về hẳn. Tôi đi nhiều nước, chưa có dân tộc nào yêu cuộc sống như dân tộc Việt Nam, quyến rũ cả người ngoại quốc. Đời sống của dân mình tôi thấy đã thay đổi hoàn toàn, ngay cả làng mạc nay cũng khang trang, sạch sẽ. Người nông dân tuy còn đi cày, nhưng trên bờ ruộng lại có chiếc Honda, không phải lội bộ như ngày xưa. ”

Ông đã mua nhà sống tại Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh cùng các con trai Duy Quang (ca sĩ), Duy Cường. Tháng 7 cùng năm, có 9 nhạc phẩm của ông được phép lưu hành ở Việt Nam; tháng 11, được phép lưu hành thêm 10 tác phẩm nữa. Tính đến nay (tháng 8 năm 2007) đã có hơn 40 tác phẩm của Phạm Duy được phổ biến tại Việt Nam, tính cả các đoản ca trong “Trường ca con đường cái quan”.
( Biên tập Phạm Tiểu Vũ)
Thế Phả Họ Phạm
Lúc còn nhỏ, gia đình tôi có một cuốn gia phả đặt trên bàn thờ. Gia phả viết bằng chữ nho, nếu tôi muốn tìm hiểu về gốc gác của mình thì ngay cả đến tên ông nội và bà nội, tôi cũng không biết. Và càng không dám hỏi mẹ hay anh chị về các bực tổ tiên, vì đó là chuyện báng bổ.

Suốt đời mình, tôi luôn luôn tìm mọi cách để tìm hiểu về gốc gác của mình thì vào tháng 5, 1989 tôi nhận được từ cụ Dã Lan, một chuyên gia về thế phả ở Saigon, một cuốn sách in bằng ronéo gọi là THẾ PHẢ HỌ PHẠM.
Cuốn sách này do một ông tổ họ Phạm, thuộc vào đời thứ 9, tên là Phạm Duy Đống, nho sinh thi đỗ Tam Trường Khoa Ất Mão về đời Hậu Lê soạn và do một ông khác là Phạm Duy Tân nhuận đính. Rồi được ông Phạm Hoằng Nghị viết lại tại xóm Đông Yên, huyện Thọ Xương vào năm Ất Tỵ (năm thứ 5 của đời vua Thiệu Trị).
giapha nho
giapha 2
phụ chép chuyền thứ mười chi thứ nhất
cụ duy thực là con chưởng cụ duy đống mà là anh chưởng cụ chung chực ta vậy cụ sinh hai là cụ duy kiêm cụ duy tín
cụ duy kiêm sinh ông phán chưởng ông ba thuyên
cụ duy tín sinh ông văn như ông ba chi
con cháu về sau đó mà là chi thứ nhất ở chuyền thứ mười vậy
Và bây giờ được cụ Dã Lan cho in ra bằng chữ quốc ngữ.
Sách này có một bảng Sơ Đồ, nhưng cũng như trong phần viết, việc kê khai hậu duệ ngưng lại sau khi biết sơ sơ về hàng con cháu của cụ Phạm Duy Đống. Với cuốn sách và bảng Sơ Đồ của cụ Dã Lan này, tôi vẫn chưa tìm ra gốc gác của gia đình tôi.
thepha1
Vào năm 1998, tôi nhận được từ các ông Phạm Tiếp, Phạm Văn Quý, hai người cùng dòng họ với tôi, hai Sơ Đồ ghi theo thế phả họ Phạm.
Một Sơ Đồ khởi sự từ cụ Phạm Duy Đống, trong đó có ghi rõ:
Cụ Phạm Duy Đống sinh ra cụ Phạm Duy Trác
Cụ Phạm Duy Trác sinh ra cụ Toàn Dũng (cụ Dã Lan ghi là Rũng Toàn)
Cụ Toàn Dũng (Rũng Toàn) sinh ra cụ Phạm Duy Vinh.
Cụ Phạm Duy Vinh sinh ra cụ Phạm Duy Tốn…
thepha2
Tuy rằng tôi có một thắc mắc vì trong bảng Sơ Đồ này không thấy có tên Phạm Duy Đạt nhưng tối thiểu tôi cũng biết được rằng : nếu cụ Phạm Duy Đống thuộc vào dòng họ thứ 9 thì cụ Phạm Duy Tốn thuộc vào dòng họ thứ 13.
Tôi biết thêm được rằng cụ tổ đời thứ nhất của họ Phạm là cụ Phạm Qúy Công và cho đến đời cụ tổ thứ 10 là cụ Duy Trác thì cụ này có ba người con là : Duy Bài, Duy Tân và Duy Thuần.
phamquy
Phạm Qúy
Từ ba người con này, chỉ có cụ Duy Bài là có gia phả ghi lại tên các con cháu cho tới bây giờ. Hai ông Phạm Tiếp, Phạm Văn Quý là họ Phạm đời thứ 16 và thuộc vào dòng dõi cụ Duy Bài. Ông nội tôi có thể thuộc dòng dõi của cụ Duy Tân hay cụ Duy Thuần…
Và tôi biết tôi là họ Phạm đời thứ 14.
Suốt đời mình, tôi luôn luôn tìm mọi cách để tìm hiểu về gốc gác của mình thì bây giờ, nhờ việc tôi trở vể quê hương sau 30 năm sống ở nước ngoài, qua cuộc đi tìm mồ mả gia tiên, nhất là được người trong làng trong họ còn giữ được những tài liệu vể thế phả, tôi biết chắc chắn tôi xuất sinh từ một vị tổ của tôi là Phạm Duy Đống nho sinh thi đỗ Tam Trường Khoa Ất Mão nghĩa là từ thời Hậu Lê.
Tôi không còn những giờ phút khắc khoải về tông tích gia đình nữa và tin tưởng sẽ có một ngày có người trong họ Phạm sẽ giúp tôi tìm thêm cái khâu giữa ông nội tôi là Phạm Duy Đạt và những vị tiền bối.
( Theo Phạm Duy từ website : phamduy2011.com )
NHỮNG TÁC PHẨM CỦA NHẠC SĨ PHẠM DUY :
Mp3
Gánh lúa (Phạm Duy) Lời bài hát
Trình bày: Ái Vân |
Mp3
Đố ai (Phạm Duy) Lời bài hát
Trình bày: Ý Lan & Vũ Khanh |
Mp3
Phố Buồn (Phạm Duy)
Trình bày: Thanh Thúy |
Mp3
Tìm nhau (phạm Duy)
Trình bày: Tuấn Ngọc |
Mp3
Tình ca (Phạm Duy) Lời bài hát
Trình bày: Thái Thanh |
Mp3
Ngậm Ngùi – Phạm Duy
Trình bày: TTV |
Mp3
Đêm xuân (Phạm Duy)
Trình bày: Lệ Thu |
Mp3
Đố ai (Phạm Duy)
Trình bày: Ý Lan & Vũ Khanh |
Mp3
Nương chiều (Phạm Duy)
Trình bày: Ái Vân |
Mp3
Tôi biết (Phạm Duy)
Trình bày: Duy Quang |
Mp3
Ru con (Phạm Duy)
Trình bày: Thái Thanh
Mp3
Tuổi ngọc (Phạm Duy)
Trình bày: Mắt Ngọc |
Mp3
Đố ai (Phạm Duy) Lời bài hát
Trình bày: Như Quỳnh |
Mp3
Nương chiều (Phạm Duy) Lời bài hát
Trình bày: Vũ Trụ & Hồ Đăng Long (Violin-Piano) | |Nhạc Không Lời
Mp3
Xuân Thì (Phạm Duy)
Trình bày: Thúy Hồng |
Mp3
Nương chiều (Phạm Duy) Lời bài hát
Trình bày: Quỳnh Giao |
Mp3
Phố Buồn (Phạm Duy)
Trình bày: Thúy Hồng |
Mp3
Tình Cầm (Phạm Duy) Lời bài hát
Trình bày: Tuấn Ngọc |
Mp3
Người về (Phạm Duy)
Trình bày: Ái Vân |
Mp3
Kỷ niệm (Phạm Duy) Lời bài hát
Trình bày: Thái Thanh |
Mp3
Hẹn hò (Phạm Duy) Lời bài hát
Trình bày: Ngọc Hạ |
Mp3
Tình ca (Phạm Duy)
Trình bày: Thái Thanh |
Clip
Tình ca (Phạm Duy) Lời bài hát
Trình bày: Vũ Khanh |
Clip
Tuổi ngọc (Phạm Duy)
Trình bày: Mắt Ngọc |
Mp3
Đêm Xuân (Phạm Duy)
Trình bày: Lệ Thu |
Phạm Duy – ngày về Hà Nội

TTO – “Tôi thật hạnh phúc bởi sau 60 năm (kể từ 1953) lại được đứng hát giữa lòng thủ đô, trên sân khấu Nhà hát lớn Hà Nội” – nhạc sĩ Phạm Duy cảm động trước đêm nhạc Phạm Duy – ngày trở về diễn ra vào 20g ngày 27-3. Lần đầu tiên kể từ ngày trở về định cư và hồi tịch trên quê hương, nhạc sĩ Phạm Duy và âm nhạc của ông có cuộc hội ngộ chính thức với khán giả mộ điệu thủ đô Hà Nội.

anhphamduy1
Phạm Duy trong ngôi nhà cũ ở phố Hàng Dầu – Ảnh tư liệu
Được trình diễn tại Hà Nội, với Phạm Duy, đó mới là một cuộc trở về thật sự trọn vẹn.

Trở về “vùng ấu thơ”

Trong thiên bút ký Lá rụng về cội ghi lại những lần về thăm quê hương từ năm 2000, nhạc sĩ Phạm Duy đã gọi Hà Nội một cách âu yếm “vùng ấu thơ”:

“Hà Nội khi tôi còn bé, là một thành phố có khoảng một hay hai trăm ngàn cư dân, đường sá không bao giờ đông người qua lại, xe cộ chỉ là xe đạp, xe kéo và xe bò. Ban ngày thì còn có chút tiếng động nhưng ban tối thì yên tĩnh hoàn toàn.

Vào năm 2000, sau 50 năm vắng mặt, duyên may run rủi khiến tôi có cơ hội trở về thăm ngôi nhà cũ ở phố Hàng Dầu, ngay cạnh hồ Gươm.

Khi xưa chỉ có 5 mẹ con chúng tôi ở trong căn nhà nhỏ này, bây giờ có tới 5 gia đình sống chung với nhau, nội thất do đó mà thay đổi hoàn toàn. Tôi được nói chuyện thân mật với các chủ nhà, phần nhiều là người tỉnh nhỏ ra Hà Nội sống để trở thành dân Hà thành.

Vùng ấu thơ của tôi còn là ngôi trường Nguyễn Du mà tôi theo học trong 5 năm trời. Từ nhà tôi tới trường chỉ có một khoảng cách là 200m mà thôi…

Về thăm trường cũ, tôi giống như ông Carnot trong sách giáo khoa thư lớp Đồng Ấu, sau vài chục năm, về chơi trường xưa, trong lòng xiết bao cảm động.

Ngồi đây rồi mới thấy tôi đã thực hiện câu hát soạn ra không hẳn là cho mọi người mà là cho chính tôi:

Cho tôi lại nhà trường
Bao nhiêu là người thương
Không ai thù ai oán
Ai cũng bảo tôi ngoan
Tôi yêu thầy tôi lắm…”

(Bài Kỷ niệm)

Trở lại Nhà hát lớn Hà Nội

Năm 1953, nhạc sĩ Phạm Duy đã cùng với ban hợp ca Thăng Long – gồm các giọng hát danh tiếng Thái Thanh, Thái Hằng, Hoài Trung (tức Phạm Đình Chương), Trần Văn Trạch… lần đầu tiên biểu diễn tại Nhà hát lớn Hà Nội trong đội ngũ đoàn Gió Nam. Chuyến biểu diễn này của đoàn Gió Nam gây tiếng vang rất lớn thời đó, đến giờ vẫn còn được nhiều bậc lão thành ở Hà Nội nhớ và nhắc lại.

Phạm Duy đã kể lại chuyến đi này trong hồi ký của mình:

“Bây giờ, ban nhạc mang tên Thăng Long cần phải được đăng ký ở ngay đất Thăng Long. Tôi không thể nào quên được sự nhiệt tình mà người dân Hà Nội đã dành cho ban Thăng Long và các nghệ sĩ khác của đoàn Gió Nam. Vì không mua được vé, nhiều thanh niên – bây giờ đã công thành danh toại cả rồi – phải trèo qua cửa sổ Nhà hát lớn để coi chúng tôi hát.

Vào năm 1953, nghệ thuật ca diễn của chúng tôi có vẻ hấp dẫn hơn tất cả những gì dân chúng đã coi trong phạm vi tân nhạc. Lối hát bè và cách trình bày của ban Thăng Long là sự mới lạ vì chưa hề có một ban hợp ca gia đình với các giọng hát quyện vào nhau như vậy tại đất Bắc Hà. Trần Văn Trạch với mớ tóc dài và tác phong trình diễn đi trước phong trào hippy cả mấy chục năm đã đưa địa vị của những anh hề lên rất cao”.

Hà Nội với kỷ niệm cùng một giọng ca “vàng ròng”

Một giọng hát qua những tình khúc Phạm Duy đã ảnh hưởng lên cả một thế hệ ca sĩ tân nhạc Việt Nam – đó là ca sĩ Thương Huyền, người sau này được phong tặng danh hiệu nghệ sĩ nhân dân với tài năng hát dân ca ở đỉnh cao.

Phạm Duy kể về Thương Huyền: “Tên thật của nàng là Thường. Tôi đặt tên cho nàng một cách rất giản dị, theo lối đánh vần: thương huyền thường. Ban ngày, trên căn gác hẹp của vợ chồng Văn Chung, tôi dạy Thương Huyền hát nhiều bài, trong đó có bài Trào lòng, một bài ca nhờ ở giọng hát ngọt như mía lùi của cô ca sĩ rất đa tình này mà trở thành nổi tiếng.

Chưa đầy một năm, sau khi Thương Huyền hát bài Trào lòng, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, tất cả phòng trà ở Hà Nội đều đóng cửa, đa số nghệ sĩ bỏ thành phố ra vùng quê, không còn ai hát bài đó nữa! Sau đó tôi có gặp Thương Huyền ở vùng Thái Nguyên. Khi kháng chiến thành công, trở về một Hà Nội không còn một sinh hoạt phòng trà nào cả, nhưng bà trở thành ca sĩ hát nhạc dân tộc, hát tại Đài Tiếng nói Việt Nam và đi qua Trung Quốc để thu thanh giọng ca của mình vào đĩa hát. Những bài Thương Huyền hát là dân ca như Ru con Nam bộ, Ngồi tựa mạn thuyền…”

Những ca sĩ Hà Nội đầu tiên đến với nhạc Phạm Duy sau năm 1975

Những “ca sĩ Hà Nội” – theo quy ước ca sĩ hoạt động âm nhạc xuất phát từ Hà Nội, thành danh từ Hà Nội và ở Hà Nội là chính – đầu tiên hát nhạc Phạm Duy sau 1975 là Lệ Quyên và Lê Dung. Lệ Quyên đã hát bài Ngậm ngùi trong một chương trình của Thúy Nga Paris với một phong cách hồn nhiên, tươi mát đi cùng giọng hát trong veo. Bản ghi âm này được yêu thích không kém bản đã thành “kinh điển” do một “Lệ” khác hát – nữ ca sĩ Lệ Thu.

Người ghi âm nhạc Phạm Duy nhiều nhất trong giai đoạn mà nhắc tới Phạm Duy vẫn là điều “nhạy cảm” chính là NSND Lê Dung. Những bài hát Phạm Duy mà Lê Dung đã thu đủ cho hơn một album theo chuẩn thông thường. Tuy nhiên, đến giờ vẫn chưa có một album như thế được phát hành dù ở hải ngoại hay trong nước. Được nghe và yêu thích nhiều trong số này là hai bài Mộ khúc, Nghìn trùng xa cách…

Lê Dung cũng có mối quan hệ thân tình với nhạc sĩ Phạm Duy trong nhiều năm, họ đã gặp nhau nhiều lần tại Pháp qua các chuyến biểu diễn của Lê Dung. Phạm Duy ca ngợi Lê Dung “người nữ ca sĩ hạng nhất của Việt Nam”. Khi Lê Dung qua đời năm 2001, ông đã bày tỏ sự thương tiếc của mình “Một năm sau khi gặp nhau trên quê hương, người ca sĩ có giọng hát cao quý nhất Việt Nam qua đời, tôi không biết vì bệnh gì. Chỉ biết thương tiếc diva Việt Nam Lê Dung”.

9-1345570605_480x0
Nhạc sĩ Phạm Duy trong đêm nhạc Con đường tình ta đinăm 2008 – Ảnh: T.T.D.
Trở về khi quê hương yên bình

“Sẽ có 20 ca khúc được trình diễn – Phạm Duy chia sẻ – Với 3 chủ đề Tình ca kháng chiến, Tình ca quê hương và Tình ca đôi lứa. Cùng với những ca khúc Quê nghèo, Nương chiều, Bà mẹ Gio Linh, Nghìn trùng xa cách, Cỏ hồng, Kiếp nào có nhau, Tình ca, Áo anh sứt chỉ đường tà, Ngày xưa Hoàng Thị, Ngậm ngùi…, sẽ là “nỗi nhớ quê – Hà Nội” của Phạm Duy qua những dòng thơ.

Suy nghĩ thật mộc mạc và cũng là lẽ tự nhiên “chim bay về tổ, lá rụng về cội”, cái khao khát – hay khắc khoải – cuối cùng của tôi là được trở về sống chết ở quê mình. Giờ tôi đã hoàn thành được tâm niệm lớn. Sau đêm nhạc Phạm Duy – Ngày trở về, tôi lại tiếp tục làm “Minh họa Kiều – MHK” – tác phẩm mà tôi xem như là cuối cùng trong cuộc đời làm nhạc.

* Nhân nói đến MHK – một “công trình nhạc” hàn lâm mà bình dị, dù vẫn đang trong thời gian “thi công” nhưng đã được nói đến nhiều ở cả trong và ngoài nước. Lý do để nhạc sĩ giàu công với MHK phải chăng cũng bởi tầm vóc vĩ đại của thi phẩm?

– Tôi chọn Truyện Kiều của Nguyễn Du bởi thi phẩm này tiêu biểu cho tâm thức Việt Nam. Hiện tôi đang đi vào loại nhạc tâm linh để giã từ loại nhạc thế tục. Tôi còn muốn trung thành với lý tưởng điều hợp xã hội bằng âm nhạc cho nên muốn dùng lời thơ vĩ đại của Tố Như và nét nhạc nhỏ nhoi của tôi làm nơi tự tình cho những ai đã trót xa lìa nhau hơn nửa thế kỷ.

* Cảm xúc của một Phạm Duy tuổi 20 với cảm xúc của một người nhạc sĩ “vạm vỡ”, viên mãn trong sự nghiệp – vừa được nhưng cũng là mất?

– Làm gì có chuyện được hay mất? Tôi sống rất bình thường, và không nghĩ rằng mình đã già hay còn trẻ. Làm xong việc gì thì quên ngay việc đó. Lòng tôi rất bình an, dù ai khen hay chê, ai yêu hay ghét, ai hiểu đúng hay hiểu lầm.

* Nguyễn Du đem thuyết “tài mệnh tương đố” làm luận đề cho Truyện Kiều. Sự ra đi và trở về của Phạm Duy có phải ít nhiều cũng bởi cái nỗi “tài hoa” mà nên?

– Tôi không bao giờ dám nói rằng mình có tài và sự đi về của tôi đã bị ảnh hưởng như cụ Nguyễn Du đã nói về nàng Kiều. Tôi ra đi và trở về cũng chẳng có gì là lạ thường. Tôi chỉ là một người VN phải sống trong một thời nhiễu nhương đã qua, bây giờ quê hương đã yên bình thì phải trở về.

ĐỖ HƯƠNG – VIỆT HOÀI

Các bài viết khác :